Chia quân là một việc vô cùng quan trọng. Trong tay Khung Dực đang có hai mươi ngàn Nhạn Quân, tám ngàn quân Chinh Sa. Lứa dân binh thứ nhất được một ngàn người, lứa thiếu niên này hai ngàn người. Tuy nhiên, dân binh không phải là quân đội chính quy, không thể nào tính vào quân số và điều động như quân đội, hưởng chế độ như quân đội. Ngoài ra, việc phân ai vào đâu cũng là một câu hỏi lớn.
Nhạn Quân có ba binh chủng chính, bao gồm kỵ binh, cung thủ và bộ binh. Chinh Sa chỉ có kỵ binh và bộ binh. Khung Dực muốn nối liền Nhạn Quân và Chinh Sa thì lực lượng và khả năng hai bên cũng phải tương đồng, sau này khi cần mới có thể phối hợp nhịp nhàng. Mục đích ban đầu khi Khung Dực thành lập dân binh cũng chỉ là để san sẻ với Nhạn Quân và nâng cao khả năng tự bảo vệ của người dân. Hắn vẫn còn nhớ rõ cảm giác khi nhìn thấy năm mươi ngôi mộ im lìm trong gió tuyết năm nào. Lúc Khung Dực tháo mũ giáp dập đầu, trán hắn tựa vào tuyết lạnh, cảm nhận rõ mặt đất bên dưới tanh nồng mùi máu.
Hắn không muốn việc tương tự xảy ra thêm lần nào nữa. Binh lính chết trận là lẽ thường, nhưng dân lành tay không tấc sắt thì khác.
Nếu xét về số lượng, tổng cộng ba ngàn dân binh này có một nửa đến từ Khúc Băng, nửa còn lại đến từ Chinh Sa. Đúng ra sau khi huấn luyện hoàn tất, ai nên về quê nhà người nấy. Trong số này cũng có nhiều thiếu niên trẻ tuổi, vẫn nên được học hành thêm. Tuy nhiên sau khi nhìn thấy hai đội dân binh hòa hợp với nhau trong doanh trại Nhạn Quân, khi dẫn đám thiếu niên phóng ngựa trên những đồi cát vàng rực của dải Chinh Sa, khi tắm mình trong làn nước mát rượi của Vịnh Lam Thủy, lòng Khung Dực lại nảy ra một ý khác.
“Nếu sung hết vào Nhạn Quân thì áp lực quân lương và hậu cần sẽ thế nào?” Ngồi trên ghế chủ soái, Khung Dực trầm ngâm hỏi.
Phó tướng Nhạn Quân là Lâm Sách, tính toán một chút rồi lắc đầu: “Tạm gồng gánh trong thời gian ngắn thì được, về lâu dài cũng không ổn, vẫn phải dựa vào Vương Đô chu cấp lương thảo, ngoài ra còn phải lấy thêm ngựa của Đại Mạc.”
Đinh Đại Đồng, thống lĩnh phía Chinh Sa cũng nói: “Nhị vương tử, phía Chinh Sa cũng cần người để gia tăng hàng phòng thủ và mở rộng đội trinh sát, đội thám báo, liên hệ chặt chẽ hơn với phía Nhạn Quân. Ba ngàn dân binh này, không thể phân hết vào Nhạn Quân.”
Kỷ Phong nhìn Đinh Đại Đồng rồi bảo: “Lão Đinh, đưa hết ba ngàn quân này về Chinh Sa, ngươi cũng nuôi không nổi.”
“Đúng thế, nhưng đem một nửa người của phía ta về thì vẫn được.” Đinh Đại Đồng kiên định trả lời.
Cả doanh trướng lại rơi vào trầm mặc.
Khung Dực hơi chồm người tới phía trước, chống hai khuỷu tay lên bàn, hai bàn tay lồng vào nhau đỡ lấy gương mặt anh tuấn, uy nghiêm. Hắn chợt lên tiếng hỏi:
“Các ngươi không nhận thấy điều gì sao? Hai đội dân binh này rất đoàn kết, vô cùng hòa hợp.”
Tất cả mọi người đều đưa mắt nhìn Khung Dực. Lúc này, hắn từ tốn lấy tấm bản đồ Khúc Băng trên bàn xuống, vứt qua một bên. Sau đó, hắn lôi một tấm bản đồ khác trong ngăn tủ ra, trải lên bàn.
Toàn bộ lãnh thổ Đại Thương bung ra, trải dài trên mặt giấy.
“Nhạn Quân có hòa hợp không? Có. Quân Chinh Sa có hòa hợp không? Cũng có. Thế nhưng hai đội quân này thiếu cái gì so với hai đội dân binh kia, các ngươi có biết không? Là thiếu mất ba năm. Tuổi nhập ngũ chính thức của Đại Thương là mười lăm tuổi. Đội dân binh thứ hai này, ta lấy từ mười hai đến mười lăm, nhưng đa phần là mười hai mười ba tuổi. Các ngươi thử tưởng tượng xem, có một đội quân gắn kết với nhau từ thời niên thiếu, cùng nhau trải qua huấn luyện mà lớn lên, cùng nhau kinh qua trận mạc. Đến tầm độ tuổi rực rỡ nhất để tung hoành sa trường là mười tám, hai mươi tuổi, bọn chúng đã bên nhau bao lâu rồi? Đã bảy, tám năm rồi! Thử hỏi đội quân đó sẽ ăn ý thế nào, hiểu nhau thế nào, tin tưởng nhau thế nào? Dưới huấn luyện nghiêm ngặt cùng chế độ phát triển thể chất phù hợp, đội quân đó tương lai sẽ như thiên binh thiên tướng, không gì cản nổi! Nếu may mắn không bỏ mạng sa trường, đội quân đó chỉ có càng ngày càng mạnh, càng đánh càng giỏi!”
Cả doanh trướng im phăng phắc, cơ hồ nghe rõ cả tiếng kim rơi.
Khung Dực lại chỉ tay vào bản đồ: “Nhìn bản đồ Đại Thương của chúng ta đi. Phía bắc lạnh giá có Tuyết Nhạn tọa trấn, dị tộc sinh sống luôn quấy phá. Phía tây là đầm lầy đầy rắn rết, chướng khí mịt mù xưa nay không ai sống nổi. Phía đông là gió cát, hoang mạc trải dài, tận cùng dải Chinh Sa là vịnh nước sâu, nhưng biển cả là nơi vó ngựa không thể chạy, nước mặn ngựa không thể uống. Phía nam lại có Kinh Lạc, đối thủ từ bao đời. Chúng ta thực chất là đang bị giam cầm bốn phía! Nếu không thể thoát khỏi cục diện này thì đừng mơ tưởng gì đến một Đại Thương hùng mạnh, trường tồn!”
Lúc này, các danh tướng đã bắt đầu lờ mờ nhận ra Thống lĩnh đang muốn nói gì. Khung Dực ngẩng lên nhìn vào tất cả bọn họ: “Phải. Lý tưởng của ta không nằm bên trong phạm vi Đại Thương bây giờ, cũng không nằm tại Khúc Băng, hay thậm chí là ngai vàng.”
“Nhạn Quân đang trấn bắc, quân Chinh Sa đang trấn đông rồi trải dần xuống phía nam. Ta mất ba năm xây hàng phòng thủ, nối liền hai cánh quân, xây dựng dân binh… không phải chỉ để canh giữ một ngọn núi thiêng Tuyết Nhạn. Ta cùng các ngươi đang xây nên một đội quân thống nhất, làm nòng cốt của Đại Thương, đang mài lưỡi đao cho Đại Thương. Chúng ta chính là một thanh gươm mở cõi! Bởi vậy, đừng có nói với ta mấy chữ như quân của ta, quân của ngươi nữa. Ở đây chỉ có một đội quân duy nhất, rõ chưa?”
Dàn tướng soái ngồi im chết lặng mất một lúc lâu. Lâm Sách là người đầu tiên quỳ xuống, tiếp đến là Đinh Đại Đồng, sau cùng là toàn bộ binh lính, tướng sĩ trong doanh trướng.
“Nguyện cùng Thống lĩnh mở mang bờ cõi Đại Thương, chết cũng không từ!”
Khung Dực nhìn quanh, dịu giọng bảo: “Đứng dậy cả đi. Giao cho Lâm Sách tiếp tục họp với các thống lĩnh, trong vòng bảy ngày phải trình lên cho ta kế hoạch chi tiết theo phương hướng thống nhất các cánh quân, cả kế hoạch đào tạo cho ba ngàn dân binh này. Bọn họ là lứa quân thống nhất, đồng bộ đầu tiên, vừa phải tôi luyện, vừa phải mở rộng, nghe rõ chưa?”
“Rõ!”
Khung Dực vén rèm bước ra ngoài, hít thở một hơi dài. Không khí buốt giá nhưng cực kỳ trong lành, tinh khôi. Kỷ Phong theo sau, ngập ngừng một lúc không nói ra lời. Khung Dực thả bộ chậm rãi, liếc mắt nhìn Kỷ Phong: “Thôi được rồi, nói ra đi.”
“Nhị vương tử, nếu muốn mở rộng bờ cõi thì không thể thiếu đi cánh quân phương nam. Dù sao đó cũng là đội quân đã giao tranh cùng Kinh Lạc nhiều năm, nắm rõ tình hình bên đó nhất.”
Khung Dực gật đầu: “Ta biết. Đội quân đó hiện nay do phó tướng của Lưu Mục, Quảng Ngân Trình thống lĩnh. Nhưng mà không sao, ta không rành chiến trường phía nam nên cũng không có ý định tiếp quản.”
“Nói như vậy, trong kế hoạch của ngài không có việc nam tiến sao?”
“Thay vì nam tiến, ta lại muốn chinh tây và vượt biển hơn. Đi những nơi chưa ai từng đi, chinh phục những điều chưa ai từng chinh phục.” Khung Dực mỉm cười. “Phía Kinh Lạc có Quảng Ngân Trình là được rồi.”
Kỷ Phong hơi suy tư: “Nhưng như vậy ngài cũng phải nắm phần lớn binh quyền. Vừa trấn bắc, vừa chinh tây, lại còn xây dựng hải quân vượt biển. Liệu…”
Thấy Kỷ Phong e ngại mà bỏ dở câu nói, Khung Dực đạp lên mặt tuyết xôm xốp, bật cười: “Từ nhỏ, phụ hoàng đã nuôi dạy hai huynh đệ ta rất rõ ràng. Đại ca thân phận cao quý, là đích tử, học thuật đế vương mà lớn, sau này sẽ lo việc triều chính, được chú định trở thành tân đế. Ta thể chất khỏe mạnh, lại thích học võ, bắn cung cưỡi ngựa, ta sẽ làm Chiến Thần của Đại Thương, khi có giặc thì làm tấm khiên, khi cần mở cõi thì sẽ làm thanh đao mở cõi.”
Chợt, giọng Khung Dực hơi chùng xuống: “Đúng ra còn một vị trí nữa cho Tiểu Huyền, chỉ tiếc đệ ấy…”
“Vị trí thứ ba đảm nhận việc gì?” Kỷ Phong hỏi.
“Phát triển kinh tế, cải tiến kỹ thuật trồng trọt, chăn nuôi. Nếu hợp sức của cả ba huynh đệ, Đại Thương sẽ cực kỳ phồn thịnh. Thậm chí… thậm chí còn có thể tiến xa hơn.”
Những ngày sau đó, tuyết rơi càng dày. Chẳng mấy chốc, kỳ hạn bảy ngày đã đến. Khung Dực ngồi trong doanh trướng, hài lòng xem xét bảng kế hoạch chi tiết mà các thống lĩnh nộp lên. Đội dân binh thứ nhất sẽ phải trải qua một kì thi chọn lọc, ai qua được sẽ được chính thức gia nhập Nhạn Quân. Ai chưa qua thì gộp vào đội quân thiếu niên để tiếp tục rèn luyện. Đội quân thiếu niên này sẽ tiếp tục trải qua thêm một năm huấn luyện cùng nhau nữa, trong đó có sáu tháng tại Khúc Băng, sáu tháng tại Chinh Sa. Sau tổng thời gian hai năm, họ sẽ phải trải qua kì thi vào quân đội, ai thi đậu sẽ được phân chia vào các binh chủng phù hợp với thể trạng và sở trường của mình, ai thi chưa đậu lại tiếp tục trở về dân binh rèn luyện, cùng gia nhập với lứa dân binh thiếu niên mới tuyển. Ngoài ba binh chủng chính là kỵ binh, bộ binh và cung thủ, các tướng lĩnh còn thống nhất thành lập thêm bộ trinh sát kiêm thám báo và bộ hậu cần. Năm binh chủng này sẽ trực thuộc Nhạn Quân và Chinh Sa, hiện tại vẫn sẽ do Lâm Sách và Đinh Đại Đồng quản lý nhưng dần dần sẽ đồng bộ hóa hai cánh quân. Hai người bọn họ sẽ đóng vai trò như Tả tướng và Hữu tướng, cùng nhau nghe lệnh Thống lĩnh là Khung Dực.
Khi chỉ còn ba ngày nữa là đến giao thừa, việc chia quân, phổ biến và thi triển kế hoạch đào tạo cũng xong. Khung Dực tranh thủ chút thời gian chạy vào thị trấn Khúc Băng, mua ít quà cho Tiểu Huyền. Lúc đi ngang qua một sạp hàng bán mứt, hắn chợt nhìn thấy một loại mứt quả màu nâu lạ, bèn tò mò cầm lên ăn thử.
“Thống lĩnh, đây là loại mứt chà là của ngoại tộc đó, cực kỳ thơm ngon, cực kỳ quý hiếm nha. Thống lĩnh mua một ít về ăn Tết đi!”
“Hạt này trồng được không vậy?” Khung Dực nuốt xong miếng mứt ngọt thanh thanh, chất hơi bột mà không ngấy, gật đầu khen ngon rồi đưa cái hạt hình thoi màu nâu lên ngắm nghía.
Người chủ sạp gãi đầu: “Ta cũng không rõ, nếu muốn trồng chắc phải lấy hạt của quả tươi mà trồng thử.”
“Có quả tươi không?”
“Không, chỉ có ít quả phơi khô chưa kịp làm mứt, Thống lĩnh mua không?”
“Mua, mua cả mứt và quả khô, mỗi loại hai cân. À thôi, quả khô ta lấy hết.”
Tối đó, Khung Dực về phòng soạn vài bộ quần áo đi đường mang về Vương Đô, ngẫm nghĩ thế nào lại lôi tảng đá thô màu lam kia ra ngắm nghía, rồi lại quyết định gói luôn đem theo. Kinh thành có nhiều hiệu trang sức tay nghề tinh xảo, chắc chắn có thể giúp hắn.
Dưới ánh nến vàng, tảng đá màu lam kia mát rượi, tỏa ra một sắc xanh dịu dàng, trong trẻo.