“Tra chứ, sao lại không điều tra? Thần còn mong đến một ngày, Quan gia có thể đồng ý với thỉnh cầu của thần.”
Thỉnh cầu gì?
Đợi chân tướng sáng tỏ rồi lại nói.
…
“Vì Tiển Khâm Đài mà Chiêu vương phải sống là Chiêu vương, nay sóng gió Tiển Khâm Đài đã qua, thần cũng không cần phong hào Chiêu vương này nữa. Thần họ Tạ, thỉnh cầu của thần là muốn được làm người họ Tạ.”
Triệu Sơ thở dài bảo: “Biểu huynh đứng dậy đi.”
“Hiện giờ sĩ tử địa phương dâng thư tới tấp, bộ Lễ trả lời không xuể, trầm còn định để biểu huynh quản lý bộ Lễ, Hàn Lâm, trấn an sĩ tử.” Triệu Sơ nói, “Nhân tài không thể thiếu, trẫm cũng không e ngại vương gia khác họ, kỳ thật trẫm rất muốn biểu huynh ở lại để phân ưu cùng trẫm.”
Tạ Dung Dữ nói: “Hai năm trước khi Quan gia triệu thần vào cung lúc nửa đêm, có phải đã có ý định này?”
Đêm thu hai năm trước, Tạ Dung Dữ đeo mặt nạ vào cung gặp vua, Triệu Sơ đích thân đưa cho y một bức thư, “Trước lúc lâm chung, phụ thân đã giao cho trẫm hai bức thư, đây là bức thứ nhất.”
Là bức thư của một cô gái tên Phù Hạ ở ngoài cung gửi cho Tiểu Chiêu vương, trong thư ghi rằng Tiển Khâm Đài sập là có nội tình khác. Lúc ấy Tạ Dung Dữ còn đang bệnh, Chiêu Hóa đế mới giấu lá thư này đi, trước khi lâm chung mới đưa cho Triệu Sơ.
Nhưng Tạ Dung Dữ lại hỏi: “Thần có thể biết bức thư còn lại của tiên đế để lại là gì được không?”
Triệu Sơ im lặng rất lâu, đoạn nói: “Nếu bây giờ trẫm đưa cho biểu huynh xem, thì biểu huynh có hứa với trẫm sẽ làm đại thần phụ chính không?”
Tạ Dung Dữ dứt khoát đáp, “Thế thì không cần.”
…
Còn giờ đây Tạ Dung Dữ đã biết rồi, bức thư còn lại của Chiêu Hóa đế chính là chiếu xưng tội được dán cùng cáo thị.
Triệu Sơ nói: “Hồi nhỏ trẫm cảm thấy biểu huynh lạnh lùng khó gần, về sau trẫm mới phát hiện, thực ra biểu huynh không hề lạnh lùng, chỉ vì huynh không thuộc về thâm cung nên mới tỏ vẻ xa lạ như thế.”
Nói đoạn, chàng thở dài: “Tiếc thay, ngàn quân dễ tìm lương tướng khó cầu, đạo trị quốc cũng thế, nhân tài đáng quý biết bao, trẫm rất mến mộ người tài, luôn muốn biểu huynh ở lại trong triều.”
Tạ Dung Dữ cười bảo: “Thiên hạ nhiều nhân tài, Quan gia đâu thể chỉ dùng một mình thần.”
Hơn nữa, bậc Quân chủ chính trực thanh liêm, người có tài mang lòng hoài bão ắt sẽ tự tìm đến.
Năm năm trước, một chiếu xưng tội đã để Thái tử quỳ trước giường bệnh tiên đế hạ quyết tâm, kiên định vững bước đi xa đến vậy.
Lòng quân vương có đất trời chứng giám, Đại Chu ắt sẽ càng phát triển dưới thời của Gia Ninh đế.
Triệu Sơ mỉm cười, “Được rồi, trẫm phê duyệt thỉnh cầu của biểu huynh.”
Ba hôm sau, triều đình hạ một thánh chỉ, vào cuối giai đoạn xây dựng Tiển Khâm Đài, Tạ thị Dung Dữ được phân công quản lý công việc liên quan tại huyện Sùng Dương, quả thật việc đài sập có phần do giám sát không chặt, nay triều đình tước bỏ phong hiệu Chiêu vương của Tạ thị Dung Dữ, biếm làm thứ dân. Song, niệm có công trong việc truy tìm chân tướng, ngay hôm nay đuổi ra khỏi thành, không có hình phạt nào thêm. Ngoài ra, tổng đốc công Ôn Thiên đã làm tròn chức vụ trong lúc xây đài, không có tội lơ là bỏ mặc, sau khi thảo luận, triều đình quyết định miễn trừ tội danh, cũng xóa bỏ tội liên đới cho nữ Ôn thị và Nhạc thị Ngư Thất…
***
Tạ Dung Dữ và Thanh Duy rời kinh trong một sáng mưa phùn ngày xuân. Vì Tạ Dung Dữ đã lĩnh chỉ “trị tội” nên người khác không thể đến tiễn đưa, sáu người bọn họ ra đi trong âm thầm. Nhưng không sao, lẽ ra hành trình này nên đến từ lâu, không cần phải nói lời tạm biệt.
Mưa phùn rơi nghiêng trên cổng thành, Vệ Quyết cùng mấy người Chương Lộc Chi đứng nhìn về nơi xa, một tên lính mới lấy làm khó hiểu, tò mò hỏi: “Chỉ huy sứ đại nhân, ngài đang nhìn gì thế?”
Vệ Quyết đáp: “Có cố nhân rời đi, ta nhìn tiễn đưa một đoạn.”
Ban trưa, trong ngõ Lưu Thủy tấp nập người qua kẻ lại, ông chủ Đông Lai Thuận nhìn ra đường, ông chủ tiệm bên bèn hỏi: “Ông chủ Ngô đang nhìn gì đấy, có khách đặt bàn hả?”
Ông chủ Ngô lắc đầu: “Ở phía đông thành có một cặp vợ chồng hay tới chỗ tôi ăn Ngư Lai Tiên, hôm trước bọn họ nói sắp sửa rời đi, có thể đi chừng một năm, sai người hầu đến chỗ tôi lấy ít Ngư Lai Tiên. Không biết xe ngựa bọn họ có đi ngang con ngõ này không, tôi muốn đưa tiễn bọn họ một đoạn.”
Sớm hơn nữa, khi buổi chầu vừa bắt đầu, đại thần chờ ngoài điện Tuyên Thất nối đuôi bước vào, không hẹn mà cùng chừa vị trí đầu tiên ở hàng bên trái. Triệu Sơ nhìn xuống, đó chính là chỗ Tiểu Chiêu vương đứng khi ở trên triều.
Nhưng lần này, đã không còn Chiêu vương nữa rồi.
Xe ngựa của Tạ Dung Dữ sắp rời cổng thành, nhưng chưa đi xa thì bỗng có mấy sĩ tử chạy đến cổng thành, quỳ xuống đất dâng lên một bức thư, cao giọng nói: “Thảo dân Lương Trạch, Cử nhân Nhạc Châu, thay mặt cha xin trình thư nhận tội.”
“Vi thần Hà Cao Sầm, Huyện lệnh huyện Hà Nghi Lăng Châu, xin trình thư nhận tội.”
“Thảo dân Hầu Tín…”
Từ đầu xuân khi cáo thị Tiển Khâm Đài được dán lên, có lẽ bị ảnh hưởng bởi chiếu xưng tội của Chiêu Hóa đế và thư nhận tội Trương Viễn Tụ, sĩ tử khắp nơi không còn công kích Tiển Khâm Đài, những người có thân nhân mất mạng dưới Tiển Khâm Đài hoặc tự vấn lại bản thân, hoặc đến cổng thành dâng lên thư nhận tội như bây giờ.
Tuy không nhiều lắm, đài cũ sập rồi đài mới xây, nếu có tiếng nói như thế xuất hiện, âu cũng là chuyện tốt.
Thôi, Tạ Dung Dữ buông rèm xe, bụng nghĩ, dư âm của Tiển Khâm Đài vẫn chưa dứt, y đã làm hết khả năng rồi, những chuyện khác đành giao cho Triệu Sơ vậy.
Vị hoàng đế hiền hậu kiệm lời, ý chí mạnh mẽ ấy sẽ đưa ra câu trả lời khiến hạ thần hài lòng.
Xe ngựa lăn bánh chạy về hướng nam, đầu hè tới Lăng Xuyên, đến khi lấy hài cốt của Ôn Thiên ra khỏi khu mộ tội nhân thì đã vào đông, lúc tiến vào địa giới Thần Dương, mùa thu đã đến.
Thần Dương đầu thu có không khí trong lành, nhà của Thanh Duy nằm ở thị trấn ngoại ô Thần Dương, dựa núi mà xây, nước chảy vờn quanh, tràn đầy linh khí.
Thị trấn vẫn như xưa, thôn dân vẫn là những người ấy.
Dường như có vẻ bọn họ biết chắc Thanh Duy sẽ quay về, nàng xuống ngựa, gọi một người đang giặt giũ bên bờ sông, “thím Cúc!”, lại gọi người đàn ông đeo gùi đựng thảo dược đi từ trên núi xuống, “chú Tứ!”
Bọn họ đáp lại bằng một nụ cười rạng rỡ: “Tiểu Dã về rồi kìa!”
“Cậu con đã về từ mấy tháng trước rồi, đang chờ con ở trên núi đấy!”
“Đại Hổ, mau lại mà xem, đây chính là Tiểu Dã cô cô của mày đấy, hồi bé còn nghịch hơn cả mày.”
Tạ Dung Dữ đi sau lưng Thanh Duy, loáng thoáng nhận ra vài gương mặt quen thuộc trong số những người qua đường, bảy năm trước, y đến Thần Dương mời Ôn Thiên rời núi, đã từng hỏi đường một số người trong đó.
Thị trấn nhỏ ở núi rừng Thần Dương tựa chốn đào nguyên, không bị bào mòn bởi mưa gió ngoài kia.
Điểm khác biệt duy nhất là, Tạ Dung Dữ nghĩ, lần trước khi y tới đây, tình cờ gặp chú chim xanh trong núi một lần; còn nay khi y đến, chú chim xanh ấy vui vẻ nhảy nhót, kéo tay y dẫn đường.
Bảy năm trước, bọn họ không quen không biết, nhưng vô tình cùng nhau rời đi, bảy năm sau, hai người nắm tay trở về.
Trú xứ cũ vẫn cứ là như thế, vui vẻ hiền hòa chào đón họ quay về, phủi đi chuyện đài dựng đài sập, phủi đi sống chết công tội.
“Lại đây!”
Thanh Duy chỉ căn nhà tre trên núi, hớn hở nói.
Nhạc Ngư Thất ôm kiếm dựa cổng, phàn nàn: “Ta mà biết hai đứa chậm chạp thế thì đã đến Lăng Xuyên uống mấy bầu rượu trước khi về rồi, ta thèm Thượng Dao Đài ở đó chết đi được.”
Triêu Thiên nghe được, vác đao chạy hết tốc lực lên núi.
Lưu Phương và Trú Vân bật cười, giúp Đức Vinh chuyển hành lí từ trên xe ngựa xuống.
Nhà cũ gần ngay trước mắt, không rõ có phải xa quê lâu mà sinh lạ hay không, Thanh Duy chợt đi chậm lại, đúng lúc này, nàng nghe Tạ Dung Dữ hỏi nhỏ: “Rừng trúc kia đấy à?”
“Rừng trúc nào?”
Thanh Duy nhìn theo ánh mắt của Tạ Dung Dữ, chợt nhớ lại hồi bé vì đuổi theo một con thỏ, nàng đã chặt trụi rừng trúc trong núi giữa đêm. Về sau Ôn Thiên đến núi Bách Dương, kể những chuyện này cho Tạ Dung Dữ nghe.
Bảy năm trước khi nàng rời nhà, rừng trúc ấy vẫn còn chưa phát triển.
Nhưng hôm nay nhìn lại, nắng thu theo gió hắt lên rừng trúc, trúc xanh tựa biển, biển xanh thành sóng.