Daisy quay đầu, nhận ra khách đến thăm là một người đàn ông trẻ mặc quân phục cảnh sát kẻ ca rô trắng đen.
Vị sĩ quan cảnh sát này có mái tóc đen và đôi mắt xanh lục, khuôn mặt hơi mờ nhòe, tay cầm bút máy, mở miệng dò hỏi:
“Trong vụ án Capim, ngoài những thứ đã khai thì em còn điều gì chưa nói?”
“Chỉ là mấy chuyện không quá quan trọng thôi ạ.” Daisy ngây ngô đáp.
Vị cảnh sát ưa nhìn cúi đầu xem sổ ghi, nói:
“Không sao, anh sẵn lòng lắng nghe.”
Daisy quay đầu nhìn những bộ quần áo đang treo cao, cảm thấy hình như mình đã quên mất lời dặn dò gì đó.
Cô bé thành thật miêu tả những chi tiết vụn vặt, cuối cùng nói:
“…Sau khi em bị bắt cóc, mẹ và chị gái em đã ủy thác một vị thám tử tư đi tìm em. Đó là ngài Sherlock Moriarty. Chú ấy là một người tốt, dù không trực tiếp tìm ra em, nhưng về sau chú ấy đã liên lạc với một phóng viên để em nhận được tiền đền bù từ quỹ ngân sách…”
Viên cảnh sát tóc đen mắt lục lại ngẩng đầu lên, nhìn Daisy một hồi, nở nụ cười ấm áp:
“Tốt lắm, câu trả lời của em rất thỏa đáng.
Em còn nhớ rõ ngoại hình của vị thám tử tư ấy không?”
Daisy khẽ gật đầu, thấy ngài Sherlock Moriarty xuất hiện bên cạnh mình thì không ngạc nhiên chút nào.
Vị thám tử lừng danh này để râu rậm, đeo kính mắt gọng vàng, có ngoại hình y hệt trong trí nhớ của cô bé.
Sau khi viên cảnh sát tóc đen mắt xanh lục dò xét hình ảnh kỹ càng mấy lần, Daisy nhận ra không biết anh đã rời đi tự bao giờ, mà cả mẹ và chị gái trong nhà cũng tự dưng biến mất.
Cô bé chạy ra khỏi quận Đông tìm kiếm bóng dáng thân thuộc, nhưng cuối cùng lại tỉnh dậy trong sự mệt mỏi và đau đớn tột cùng. Đến khi nhìn thấy trần nhà ký túc xá trường, cô bé đờ đẫn mất mấy giây.
Daisy không phát ra tiếng, chỉ nghiêng người vùi nửa khuôn mặt vào gối.
Ở mặt gối, vùng ướt dần loang ra.
Người bước vào giấc mơ của Daisy chính là Leonard Mitchell. Dù cuộc điều tra hai vụ án có điểm giống nhau chỉ là cái cớ để giúp anh làm một ít việc tư, song anh cũng không quên làm qua loa lấy lệ. Kết quả, anh lại thật sự phát hiện ra chút vấn đề.
Trong án Lanevus và án Capim đều xuất hiện một thám tử tư tên Sherlock Moriarty, cùng với bạn của người này là phóng viên Mike Joseph… Dù họ chỉ quanh quẩn ở viền ngoài câu chuyện, nhưng đây cũng là một phương hướng điều tra. Ha, Sherlock Moriarty kia hơi quen mắt thì phải, là tội phạm bị truy nã nào chăng? Leonard nhớ lại hình ảnh trong mộng, đeo găng tay đỏ, bước vào hầm giáo đường St. Samuel.
Ngay khi vừa chào hỏi với tiểu đội trưởng Soest, anh đã nhìn thấy một bạn đồng hành lại gần, đưa hai tờ giấy mỏng tới:
“Thông tin về người đàn ông mắt đỏ ở giáo đường Bội Thu mà cậu muốn điều tra đều nằm trong đây.”
“Cảm ơn, cậu có muốn cùng ăn trưa không?” Leonard cười hỏi.
Vị Kẻ Gác Đêm kia nhún vai:
“Thôi, chỉ cần cậu ngừng mấy cơn ác mộng của tôi lại là được.”
“Thành giao.” Leonard cười, nhận tư liệu.
Anh đứng tại chỗ, không vội ngồi xuống mà chỉ tùy tiện lật qua:
[Emlyn White, một ma cà rồng, hiện đang lệ thuộc vào Giáo hội Mẫu Thần Mặt Đất… Anh ta từng mất tích một thời gian, được cha mẹ ủy thác thám tử tư đi tìm. Nhờ lời giới thiệu của một quý ngài tên Stuart, cuối cùng chuyện này được giải quyết bởi thám tử tài ba Sherlock Moriarty.]Nụ cười trên mặt Leonard dần mất đi, gương mặt anh trở nên nghiêm túc.
Sherlock Moriarty? Anh thầm lặp lại cái tên này.
…
Klein không vội tìm cơ hội đóng vai chân thực. Hắn đi vòng quanh thành phố cảng trên Đảo Olavi với tư cách một khách du lịch, tìm kiếm một khoảng nghỉ ngơi ngắn ngủi trong cuộc sống vội vã dồn dập.
Thành phố này chủ yếu do dân Loen di cư tới, văn hóa ẩm thực không quá khác biệt với bờ biển phía đông của Vương quốc. Điểm đặc biệt là nơi này có nhiều các loại hoa quả mới mẻ hiếm thấy và đủ loại hải sản. Đây cũng được coi là một bản sắc của thành phố này.
Nơi đây sở hữu nguồn tài nguyên thiên nhiên dồi dào, lại nằm trên vị trí trọng yếu của tuyến hàng hải an toàn. Mức sống của nơi đây khá cao, dù là nông dân vùng ngoại ô cũng có thể tích cóp được tiền thông qua vườn trái cây.
Điều này cũng không đồng nghĩa với việc Đảo Olavi không có dân nghèo, không có tầng dưới cùng. Chỉ là giai tầng này được tạo nên bởi những cựu nô lệ——Nghị viện Loen đã sớm thông qua dự luật bãi bỏ chế độ nô lệ.
Khi nhai nuốt xong thức quả ngọt ngào mọng nước, Klein ngắm nhìn sắc trời đã hóa đen. Hắn rẽ qua một góc phố, bước vào quán bar tên Sweet Lemon.
Đó là một trong những căn cứ nổi tiếng nhất dành cho nhà thám hiểm ở Olavi. Klein tính mua nốt hai món vật liệu phụ trợ còn lại của ma dược “Bậc Thầy Điều Khiển Rối” ở đây——vỏ cây Long Văn và nước Suối Vàng Sonia rất thường thấy.
Lúc này, trong quán bar đã khá náo nhiệt. Vô số người chen chúc quanh võ đài quyền anh, bưng ly cao giọng reo hò. Những người giống nhà thám hiểm ngồi quanh bàn, thì thầm trao đổi đủ loại tin đồn.
Klein đang định chen ra chỗ quầy bar, chợt nghe thấy tên mình.
“…Ta là Gehrman Sparrow, các ngươi hẳn biết ta là ai rồi nhỉ. Ta lấy được một phần bản đồ kho báu, cần thuê ít trợ thủ. Không phải là ta sợ đâu, chẳng qua ta không thể mang hết số kho báu khổng lồ ấy về được thôi…” Một gã đàn ông khoảng ba mươi tuổi với đôi mắt xanh lục đang cầm nửa cốc rượu mạnh lên, nói với hai người phụ nữ và hai người đàn ông trong góc. Không rõ họ là thương gia hay là nhà thám hiểm.
Ngươi cũng tên Gehrman Sparrow à? Bản đồ kho báu… Sao nghe như lừa đảo vậy… Chuyện mình săn giết ‘Kẻ Xảo Ngôn’ đã truyền từ Bayam tới đây rồi sao? Ừm, hẳn là liên lạc thông qua máy điện báo và hành khách rồi. Thế nên mới có rất nhiều người biết tên và sự tích của mình, nhưng lại không rõ khuôn mặt… Sau đó đám lừa đảo lại bắt lấy cơ hội này, giả trang gạt người… Klein hiểu ra, tiến sát tới.
Gã đàn ông mắt xanh lục uống một hớp rượu mạnh, dập mạnh cốc xuống mặt bàn, quát:
“Đồng ý cũng được, từ chối cũng chẳng sao, nhưng ta ghét nhất là phải chờ đợi người khác!
Chẳng lẽ các ngươi muốn giống như ‘Kẻ Xảo Ngôn’ hả?”
Nam thanh niên trẻ đối diện hơi e sợ, mở miệng:
“Tôi biết ngài là một nhà thám hiểm hùng mạnh…”
“Nên là?” Gã đàn ông mắt xanh lục chen ngang.
Đúng lúc ấy, gã bỗng cảm thấy cổ áo bị kéo căng, cả người bị nhấc bổng lên, ngã văng ra cửa chính.
Klein không giải thích gì, trực tiếp ném bay gã này ra ngoài với vẻ mặt không cảm xúc.
Sau đó, hắn rút súng lục ổ quay, nhắm chuẩn vào nơi gã đàn ông vừa ngã xuống, bóp cò không chút do dự.
Pằng!
Ngay khi vừa rơi xuống, gã đàn ông mắt xanh lục kia đã thấy một đốm lửa tóe lên đúng chỗ mặt đất gần háng mình. Gã sợ đến nỗi nuốt ngược mọi câu chửi rủa trở lại, nhào người chuồn ngay ra khỏi quán bar.
Chẳng cần phải nói gì, vẻ yếu đuối ấy đã trực tiếp chứng minh gã không phải Gehrman Sparrow.
Klein chẳng thèm để ý đến mấy nạn nhân bị lừa đang đứng hình đằng kia. Hắn lịch sự thổi họng súng rồi nhét súng lục vào túi da dưới nách.
Thế rồi, giữa bầu không khí tĩnh lặng vì tiếng súng nổ, hắn điềm nhiên bước tới chỗ quầy bar.