Lúc bấy giờ, anh mới xoay đầu nói với Tạ Vấn: “Ta tìm hiểu đây là lồng gì trước đi. Không phải anh quen biết cha mẹ của ả à?”
Tạ Vấn: “Ý cậu là Lục Văn Quyên?”
Văn Thời: “Ừ. Anh thực sự biết được cái tên này từ trên mộ hả?”
“Không phải, từng nghe ông lão nhắc đến.” Tạ Vấn nói.
“???” Hạ Tiều nhìn về phía Lão Mao với vẻ bực tức và tủi thân, vậy mà lão lại bảo: “Thực ra khác biệt không lớn đâu, dù sao cũng là một ý thôi.”
Tạ Vấn nói theo Lão Mao: “Cha mẹ dì ta từng đề cập rằng con gái lớn tên Lục Văn Quyên đã qua đời từ rất trẻ.”
Văn Thời: “Vì lý do gì?”
Tạ Vấn: “Họ bảo là chết đuối. Dì ta có hẹn đi bơi dưới sông với bạn trong kỳ nghỉ. Cụ thể sông nào thì tôi không rõ cho mấy, nhưng chắc không phải ở gần đây, nghe đâu mang về cũng tốn nhiều sức lắm.”
“Chết đuối…” Văn Thời trầm ngâm một lúc lâu.
Kiểu chết này cũng không hề hiếm thấy. Người mất thường để lại lồng chỉ vì hai lý do, một là bản thân họ có chuyện không thể buông xuống, hai là nguyên nhân chết đuối khiến họ cảm thấy quá mức không cam tâm.
Lồng của người như vậy ít nhiều gì cũng sẽ có sự xuất hiện của những điều liên quan tới nước. Nhưng giờ xem ra, ngoại trừ trời vẫn luôn mưa, cái lồng này đúng là không có bất cứ thứ gì dính dáng tới nước cả.
“Quan sát thêm chút nữa đi.” Tạ Vấn nói.
Nếu không phải biết trước được tình huống, họ khó mà nhận định được độ khủng của lồng lúc mới bước vào.
Có lẽ chân tướng sẽ rất đơn giản, hệt như lồng của Thẩm Kiều hoặc đường Vọng Tuyền thôi. Họ chỉ cần tìm được điểm mấu chốt, làm việc nhanh và gọn thì sẽ có thể giải quyết thôi. Nhưng biết đâu cái lồng này còn dính líu đến nhiều người hơn cả Tiệm Ba Mét nữa.
Một lát sau, Lục Văn Quyên bận bịu xong thì quay lại. Dì ta vặn cửa gian ra, nhìn thoáng vào trong, ngạc nhiên bảo: “Ủa tắt TV rồi hả? Mấy cậu không xem à?”
Ai mà dám xem! Hạ Tiều nghĩ lại còn rùng mình.
Nhưng Tạ Vấn lại nói với dì ta: “Chúng tôi đang định đi phụ dì một tay đây.”
Lời này vừa nghe đã biết là vớ vẩn, nhưng Lục Văn Quyên lại tin. Dì ta cười khoát tay nói: “Khách khí thế, sao tôi có thể để mấy cậu bước vào nhà bếp được. Làm thế chẳng hợp lý tí nào.”
Dì ta vừa nói vừa chỉ ra phòng khách: “Bàn ăn nằm ở bên ngoài. Nếu không muốn xem TV, mấy cậu có thể ra đó. Chén đũa đã được bày sẵn, tôi chỉ cần bưng đồ ăn lên là xong, sẽ nhanh thôi.”
Nói thật, cũng không có ai chờ mong bữa ăn dì ta sắp chiêu đãi cả. Nhưng Văn Thời và Tạ Vấn đều dứt khoát đứng dậy, một trước một sau đi ra khỏi phòng.
Lục Văn Quyên cười cực kỳ xán lạn, song lại đưa mắt nhìn sang sô pha.
Hạ Tiều cũng hấp tấp nhảy cẩng lên, đẩy Lão Mao đi rồi vội vàng đuổi kịp anh mình và ông chủ Tạ, chẳng dám ở trong này lâu thêm bất cứ giây phút nào nữa.
Bàn ăn được đặt trong phòng khách. Nó là kiểu bàn bát tiên cũ kỹ, màu sơn đã tróc gần phân nửa, nhưng vẫn có thể nhìn ra sắc đỏ tươi lúc còn mới tinh. Ghế gỗ lưng cao cũng cùng bộ.
Trên bàn có bốn bộ chén đũa ngay ngắn, chén tròn viền xanh kèm hoa văn, đũa gỗ tròn sơn đỏ nửa cây. Trong chén được bới sẵn một nhúm cơm tẻ, đôi đũa bị cắm thẳng thật chặt ở giữa chén cơm.
Vừa nhìn đã có thể tưởng tượng ra bốn bộ đồ cúng.
Bất kỳ ai hơi nhát nào thấy được cảnh này cũng sẽ không đứng vững nổi. Nhưng ngoài Hạ Tiều không phải người ra, trong phòng chẳng có ai là thỏ đế cả.
Bởi thế họ nhanh chân ngồi xuống, rút đôi đũa ra khỏi chén cơm rồi để ở một bên.
Tiếp theo, Lục Văn Quyên bưng một cái mâm tròn bằng một tay từ trong nhà bếp ra.
Khoảnh khắc ấy, người ngồi trên bàn đều cảm thấy hình như mình từng thấy cảnh này ở đâu đó. Ngay sau đó, câu Lục Văn Quyên nói ra càng khiến họ cảm thấy quen tai hơn ——
Dì ta nói: “Sủi cảo nóng hầm hập tới rồi đây.”
Hai cái mâm tròn lớn đựng đầy sủi cảo trắng tuyết và phùng phình, hương bột mì được chưng hấp tỏa ra, bốc lên hơi nóng vừa ra lò.
Chúng trông nóng hổi, nhưng lại làm cho người ta cảm thấy như vừa rơi vào hầm băng.
“Hai cái mâm hơi nặng, mấy cậu có thể phụ một tay không?” Mắt môi của Lục Văn Quyên vẫn cười cong vút, càng nhìn càng thấy quái đản.
Lúc đưa tay nhận lấy mâm sủi cảo, Văn Thời mới nhận ra mình cảm thấy quái đản vì mỗi lần dì ta cười rộ lên, độ cong của đôi mắt và đôi môi luôn giống nhau.
Nói cách khác, lần nào dì ta cười lên cũng hệt như đang sao chép lần trước và dán thành lần này vậy.
“Chú Thúc đã mang đống sủi cảo này tới lúc sập tối.” Lục Văn Quyên giải thích, “À phải rồi, chú Ngô là trưởng thôn của chúng tôi. Ổng rất tốt bụng, tài nấu nướng càng tuyệt hơn, nhất là sủi cảo. Vỏ sủi cảo ổng cán vừa ăn lắm, cắn vào thấy dai dai, nhân cũng thơm phức. Lần nào làm sủi cảo, ổng cũng đưa cho mỗi nhà một ít cả. Mấy cậu tới cũng đúng dịp ghê!”
Dì ta đặt mâm giữa mọi người rồi bảo: “Nhất định phải nếm thử đấy. Ổng còn bỏ thêm điềm lành nữa, mấy cậu có thể thử xem có thể ăn trúng hay không nhé.”
Dì ta nói thêm câu nào, sắc mặt của Hạ Tiều sẽ càng trắng hơn theo câu nấy. Đợi dì ta nói hết, mặt của Hạ Tiều đã không còn chút máu.
Có lẽ vẫn chưa từ bỏ ý định, cậu hoảng hốt hỏi Lục Văn Quyên một câu: “Điềm lành là sao vậy dì?”
Lục Văn Quyên trả lời: “Có một miếng đựng tiền bên trong đó con.”
Hạ Tiều: “…”
Trong lúc nhất thời, cả phòng khách trở nên tĩnh lặng.
“Ăn đi chứ? Sủi cảo còn nóng hổi, nguội rồi hương vị sẽ không còn ngon nữa đâu.” Lục Văn Quyên thúc giục một cách nhiệt tình.
Văn Thời và Tạ Vấn liếc nhau, cầm đũa lên, mỗi người chia nhau gắp một miếng từ một mâm. Khi hai người họ vừa đụng vào chiếc đũa, Lão Mao cũng không khách khí nữa, gắp một miếng sủi cảo lên rồi cắn ngay tại chỗ, sau đó “ồ” một tiếng, bảo: “Thì là, không ăn được tiền rồi.”
Văn Thời cắn theo rồi xem thử, cũng là thì là, không có thứ được gọi là điềm lành nào cả.
“Xem ra số của chúng tôi không may cho lắm.” Tạ Vấn cũng nói với Lục Văn Quyên một câu.
Lục Văn Quyên rất vui khi thấy họ ăn dứt khoát như thế. Trong một nháy mắt nọ, bả vai của dì ta hơi sụp xuống, như thể là vừa thở phào một hơi vì một điều nào đó.
Dì ta lại đẩy mâm về phía trước và nói: “Không sao hết, còn nhiều mà, không cắn trúng điềm lành thì có khi nó lại nằm ở miếng tiếp theo đấy.”
Văn Thời ăn rất ít. Theo lý thuyết, sủi cảo nhân thì là phải nặng mùi lắm, nhưng đống trước mặt lại không có mùi thì là. Nói đúng ra, hình như chúng không có vị gì hết, lạt nhách như đang nhai sáp.
Tạ Vấn cũng ăn một cách thong thả. Chỉ có mình Lão Mao là ăn rất ngon miệng, nhòm nhèm nhòm nhèm, như thể lão không phải đang ở trong lồng, mà là đang ngồi trên tầng hai của Tây Bình Viên ăn thịt nhúng ấy chứ.
Tốc độ của lão rất mau, xơi sạch một mâm trong tích tắc, sau đó lại duỗi đũa sang mâm thứ hai.
Hình như chưa từng thấy ai ăn như lão, Lục Văn Quyên cũng đơ ra. Nhưng dì ta nhanh chóng phục hồi tinh thần, quay đầu nhìn về phía Hạ Tiều: “Sao con lại không động đũa, không hợp khẩu vị hả?”
“Sủi cảo ngon thế mà, không ăn tiếc lắm nhé…” Lục Văn Quyên nói hệt như lời trong TV.
Hạ Tiều nghe thế mà tưởng chừng như đã nghẹt thở.
Cậu suýt chút nữa đã định nói mình không có khẩu vị, lại chợt nhớ về cô gái tóc dài không ăn sủi cảo trong TV và tiếng búa chặt xuống nghe ầm ĩ kia…
Cậu lập tức giật mình một cái rồi nhét ngay một miếng sủi cảo vô miệng.
Đến lúc này, họ cuối cùng cũng nhận ra rằng TV không chiếu phim kinh dị gì đâu.
Đm đó rõ ràng là phim đe dọa mà.
Về phần thứ gọi là điềm lành, mãi đến khi Lão Mao xử lý miếng sủi cảo cuối cùng, họ vẫn không nhìn thấy bất cứ tung tích nào.
HẾT CHƯƠNG 62 („• ֊ •„)