Mọi người nói:
– Phải đấy, nhưng bỏ trống không tiện, cũng nên dùng chữ gì?
Mọi người đương nghĩ, Bảo Ngọc sốt ruột, không chờ Giả Chính bảo, nói ngay:
– Thơ cũ có câu “Hồng hạnh sao đầu quái tửu kỳ” 16.
Nay xin đề bốn chữ: “thanh liêm tại vọng” 17 là hơn.
Mọi người đều nói:
– Hai chữ “tại vọng” hay lắm, lại ngụ ý “Hạnh hoa” không.
Bảo Ngọc cười nhạt:
– Tên thôn mà dùng hai chữ “Hạnh hoa” thì quê lắm. Thơ Đường có câu: “sài môn lâm đạo hoa hương” 18. Sao không dùng ba chữ đạo hương thôn có hay không?
Mọi người đều vỗ tay khen. Giả Chính quát to:
– Thằng súc sinh ngu ngốc kia, mày biết được mấy vị cổ nhân, nhớ được mấy bài thơ cũ, đã dám múa mép trước các vị tiền bối? Vừa rồi cho phép mày nói bừa, chẳng qua ta thử xem mày hay dở thế nào, để làm trò cười đấy thôi. Mày cứ tưởng thực đấy à?
Nói xong, dẫn mọi người vào trong nhà tranh. Ở đây, cửa sổ dán giấy, giường gỗ đơn sơ, không có gì là hào hoa phú quý cả.
Giả Chính trong lòng rất sung sướng, lại nhìn Bảo Ngọc nói:
– Chỗ này thế nào?
Mọi người thấy hỏi, đều khẽ đẩy Bảo Ngọc, xui Bảo Ngọc nói là đẹp. Bảo Ngọc không nghe, nói ngay:
– Xem ra chỗ này kém xa “Hữu phương lai nghi”.
Giả Chính nói:
– Hứ! Đồ ngu xuẩn! Chả biết gì. Mày chỉ thích lầu son gác tía đẹp đẽ một cách thô tục, biết đâu được cái cảnh u nhã này.
Rút lại chỉ vì lỗi tại mày không chịu đọc sách thôi.
Bảo Ngọc đáp:
– Cha dạy đành là phải, nhưng cổ nhân có nói hai chữ thiên nhiên con không hiểu ý ra làm sao?
Ai nấy thấy Bảo Ngọc bướng bỉnh, sợ sẽ bị mắng; nay thấy hắn hỏi nghĩa hai chữ “thiên nhiên” đều vội nói:
– Cái gì cậu cũng hiểu cả, sao lại còn phải hỏi hai chữ “thiên nhiên”. “Thiên nhiên” nghĩa là tự nhiên thiên thành, không phải sức người làm được.
Bảo Ngọc nói:
– Thế thì chỗ này đặt thánh trang trại, rõ ràng là do người bày đặt ra. Xa thì không có hàng xóm, gần thì không có thành quách, dựa vào núi thì không có mạch, trông ra nước thì không có nguồn, chỗ cao thì không có tháp nhà chùa, chỗ thấp thì không có cầu ra chợ, trơ trọi đứng một mình, không phải là nơi bao la rộng rãi. Sao bằng mấy nơi trước có vẻ tự nhiên hơn. Tuy có giồng trúc, khơi suối cũng hơi xuyên tạc, nhưng không hại gì. Cổ nhân có bốn chữ “bục tranh thiên nhiên”, sợ chỗ này không đáng có thôn trang, và sơn thủy, mà gượng bày đặt ra, dù khéo léo đến đâu cũng vẫn không hợp.
Bảo Ngọc nói chưa dứt lời, Giả Chính nổi giận thét lên:
– Thôi, bước ngay!
Bảo Ngọc vừa đi ra, Giả Chính lại thét: “Hãy quay lại, làm thêm câu đối nữa, nếu không làm được thì ta sẽ vả vào mồm”.
Bảo Ngọc đành phải đọc:
Giặt vải xanh tươi nguồn dưới bến;
Hái rau thơm đượm khách trong mây.
Giả Chính nghe xong, lắc đầu nói:
– Cũng chẳng ra gì!
Rồi dắt mọi người đi ra, đi quanh sườn núi, khi trong hoa, khi dưới liễu, khi trên núi, khi bên sông, đến rặng đồ mi, vào giàn mộc hương, lên đình mẫu đơn, qua vườn thược dược, tới viện tường vi, tựa vào khóm ba tiêu, ngang dọc, quanh co; chợt nghe thấy tiếng nước ở trong hang đá róc rách chảy ra, trên thì dây leo lòng thòng rũ xuống, dưới thì hoa rụng rập rờn trôi quanh. Mọi người đều nói:
– Đẹp lắm!
Giả Chính hỏi:
– Các ông định đề chữ gì?
Mọi người nói:
– Không cần phải nghĩ nữa, cứ viết ba chữ “Vũ lăng nguyên” 19 là được rồi.
Giả Chính cười nói:.
– Cũ lắm! Lại không đúng sự thực.
Mọi người cười:
– Không thì đề bốn chữ “tần nhân cựu xá” 20 cũng được.
Bảo Ngọc nói:
– Lại càng hỏng nữa. “Tần nhân cựu xá” có ý là tránh loạn, dùng thế nào được? Chi bằng dùng bốn chữ “liễu đình hoa thì là hơn 21.
Giả Chính nói:
– Cũng lại nhảm nữa!.
Giả Chính đi vào trong hang, hỏi Giả Trân:
– Có thuyền không?
Giả Trân nói:
– Có bốn thuyền hái hoa sen, một thuyền ngồi chơi, nhưng bây giờ chưa làm xong.
Giả Chính cười nói:
– Tiếc rằng không vào được.
Giả Trân nói:
– Đi quanh lên núi, sẽ đến nơi.
Nói rồi đi trước dẫn đường. Mọi người níu dây vịn cây đi lên, thấy mặt nước hoa rụng man mác, dòng suối trong vắt rập rờn quanh co; hai hàng liễu rủ bên bờ, những cây đào, cây mận, mọc chen nhau che rợp cả bóng mặt trời. Khắp nơi, không có một chút đất bụi. Trong rặng liễu nhô ra một nhịp cầu, lan can sơn đỏ.
Qua cầu, đường thông các ngả; xa xa, có một tòa nhà ngói mát mẻ và một dãy tường hoa. Ở đây mạch núi chính đều xuyên qua tường chia đi các ngả.
Giả Chính nói:
– Tòa nhà này ở đây chẳng có nghĩa lý gì!
Rồi bước vào cửa. Chợt thấy mặt trước có một quả núi đá lấp lánh cao ngất trời, xung quanh bao bọc bằng các thứ đá đủ các màu, che kín hẳn những nhà cửa bên trong. Ở đây, không có một gốc cây, toàn những cỏ lạ hoặc leo lên núi, hoặc bò ra đất hoặc từ trên núi rủ xuống, hoặc luồn qua khe đá chui ra; lại có những dây từ mái nhà bò xuống, leo quanh cột chằng chịt cả bờ hè, như vải xanh phất phơ, như sợi vàng uốn khúc, quả đỏ hoa vàng, hương thơm ngào ngạt, không một thứ hoa nào có thể bì được.
Giả Chính nói:
– Thú quá! Chỉ hiềm không biết là những loại cỏ gì?
Có người nói là:
– “Tiết lệ đằng la”.
Giả Chính nói:.
– “Tiết lệ đằng la” làm gì có hương thơm lạ này?
Bảo Ngọc nói:
– Thực không phải. Trong loại cỏ này cũng có “tiết lệ đằng la”, nhưng hương thơm là của “đỗ nhược hành vu”. Còn cái giống này, hình như đây là cỏ “chi lan”, kia là cỏ “thanh cát”, đây là “kim đăng”, kia là “ngọc lộ”, thứ đỏ kia là “tử vân”, thứ xanh này là “thanh chi”. Nhớ đến những cỏ lạ đã nói ở trong Ly tao văn tuyển (văn của Khôi Nguyện), nào là hoắc nạp, gương vựng, nào là luân tổ, tử giáng; lại còn có cỏ thạch phàm, thủy tùng, phù lưu; cũng có những cỏ lục di, đan tiêu, mi vu, phong liên… Nay đã lâu năm, người đời không thể nhớ lại được, nên cứ trông hình dạng mà đặt tên; dần dần gọi sai đi, có lẽ thế đấy.
Bảo Ngọc nói chưa dứt lời, Giả Chính thét lên:
– Ai hỏi đến mày?
Bảo Ngọc sợ hãi lùi xuống, không dám nói nữa.
Giả Chính thấy hai bên hành lang có tay vịn, nhân tiện đi vào. Trước mặt, năm gian nhà mát mẻ, giàn hoa dựng lên, bốn mặt hành lang cửa sổ sơn xanh vách bóng, trông rất thanh nhã. Giả Chính thở dài:
– Ở đây mà pha trà, đánh đàn, thì chẳng cần phải đốt trầm nữa. Không ngờ lại có chỗ này, các ông chắc phải có những câu hay đề ở đây cho khỏi phụ cảnh đẹp.
Mọi người cười nói:
– Sao bằng đề bốn chữ “an phong huệ lộ” 22 là thiết thực hơn.
Giả Chính nói:
– Thế mới được bốn chữ thôi, còn câu đối?
Một người nói:
– Tôi nghĩ được một câu, xin các vị chưa cho. Nói rồi đọc:
Đỗ nhạc ngạt ngào châu minh nguyệt,
Xạ lan sực nức viện tà dương.
Mọi người nói:
– Hay thì hay thực, chỉ có hai chữ “tà dương” chưa ổn.
Người ấy nói:
– Cổ thi có câu “Mi vu mãn viện khấp tà dương” 23.
Mọi người nói:
– Buồn lắm! Buồn lắm!
Lại có một người nói:
– Tôi cũng có một câu, xin các vị chữa cho. Nói xong đọc:
Ba ngõ gió đưa hương ngọc huệ;
Một sân giăng rọi bóng kim lan.
Giả Chính vuốt râu, ngẫm nghĩ, cũng muốn để một câu.
Chợt trông thấy Bảo Ngọc đứng yên bên cạnh, mới thét:
– Sao lúc đáng nói mày không nói, định để người ta mời mày hay sao?
Bảo Ngọc thưa:
– Chỗ này làm gì có “lan xạ”, “minh nguyệt” và chơi chữ, nếu cứ kể ra cho hết, thì đề đến hai trăm câu cũng không đủ.
Giả Chính nói:
– Ai gõ đầu mầy bắt phải nói những chữ ấy?
Bảo Ngọc thưa:
– Đã thế thì cái biển nên đề bốn chữ: “Hành chỉ thanh phân” 24 câu đối thì đề:
Ngâm câu đậu khấu, thơ càng đẹp,
Sao giấc đồ mi, mộng vẫn thơm.
Giả Chính cười nói:
– Mày lại ăn cắp cái câu “thư thành tiễu diệp văn áo lục” 25, lấy gì làm lạ.
Mọi người nói:
– Bài “phượng hoàng đài” của ông Lý Thái Bạch cũng ăn cắp bài “hoàng lạc lâu”, chỉ cốt ăn cắp khéo là được. Bây giờ cứ nghĩ kỹ ra thì câu của cậu còn nhã và mạnh hơn câu “thư thành tiễu diệp” nhiều, khéo câu “thư thành…” lại ăn cắp ở câu này cũng nên.
Giả Chính cười nói:
– Có nhẽ nào thế.
Mọi người đi ra, không mấy chốc đã thấy gác tía nguy nga, lầu son cao ngất, nhà cửa san sát, đường đi quanh co.
Tùng xanh chạm mái, ngọc lan quanh thềm; mặt thú, đầu ly, sơn vàng sáng nhoáng. Giả Chính nói:
– Đây là điện chính, xa hoa quá?
Mọi người đều nói:
– Thế mới hợp thể, tuy rằng quý phi thích tiết kiệm thực, nhưng bây giờ đã tôn quý rồi, lễ nghi như thế, chẳng lấy gì làm quá.
Vừa nói vừa đi, thấy mặt trước có một cái cổng chào xây bằng ngọc thạch, phía trên long cuốn ly vờn, chạm trổ rất khéo.
Giả Chính nói:
– Chỗ này đề chữ gì được?
Mọi người nói:
– Nên đề “Bồng lai tiên cảnh”.
Giả Chính lắc đầu không nói gì.
Bảo Ngọc trông thấy chỗ này, lòng tự nhiên xúc động, hình như mình đã được thấy ở đâu rồi, nhưng không nhớ ngày tháng năm nào 26.
Giả Chính lại bảo đề, Bảo Ngọc đương ngẫm nghĩ cảnh trước, không để bụng đến việc này. Mọi người không biết ý, cho là Bảo Ngọc bị quở mắng, từ bấy đến giờ tinh thần rối loạn, lẩn quẩn nghĩ không ra; nếu giục, sợ xảy ra sự gì thì không tiện bèn nói với Giả Chính.
– Thôi! Xin để ngày mai sẽ đề.
Giả Chính cũng sợ Giả mẫu không yên lòng, cười nhạt:
– Thằng súc sinh, mày đã đến lúc hết khoe giỏi rồi! Thôi ta hạn cho mày, đến ngày mai, nếu không đề được, ta nhất định không tha đâu. Chỗ này quan hệ nhất, phải làm cho hay mới được!
Nói xong, dẫn mọi người đi xem chỗ khác. Kể từ khi vào cửa vườn đến giờ, mười phần mới đi ngắm được năm sáu. Lúc này, có người vào báo: “Có ông Vũ Thôn sai người đến trình việc.” Giả Chính cười nói:
– Còn vài chỗ chưa đến được, chúng ta hãy theo đường này đi ra, thì dù chưa biết hết cũng có thể xem qua loa.
Liền dẫn mọi người đến một cái cầu lớn, thấy nước như rèm thủy tinh dội vào, thì ra cái cầu này là cửa đập thông ra ngoài sông, khơi thành suối để dẫn nước vào.
Giả Chính hỏi:
– Đặt tên cái đập nây là gì.
Bảo Ngọc nói:
– Đây là dòng chính của suối “thẩm phương”, thì nên đặt là “đập Thẩm phương”.
Giả Chính nói:.
– Mày lại nói nhảm, không nên dùng hai chữ “thấm phương”.
Mọi người theo đường đi ra, thấy có những nhà rộng, lều tranh, tường, đá, cửa hoa, dưới núi có chùa, trong rừng có phòng luyện thuốc, hiên dài, động sâu, nhà vuông, đình tròn.
Giả Chính không đi hết được. Vì đã nửa ngày chưa được nghỉ ngơi; lưng đau chân mỏi, chợt trông thấy phía trước có một cái nhà. Giả Chính nói:
– Nơi này có thể nghỉ được!
Liền đi theo con đường nhỏ quanh khóm bích đào, qua cửa tò vò đan bằng trúc và cài hoa. Chợt thấy tường trắng vây quanh, ngoài có liễu xanh rủ xuống. Giả chính cùng mọi người đi vào. Hai bên, hành lang nối nhau, ở trong lác đác mấy ngọn núi. Một bên có mấy khóm chuối; một bên là cây hải đường của phủ tây, trông như cái tán, dây rủ xanh biếc, hoa đỏ như son.
Một người nói:
– Hoa đẹp nhỉ! Hải đường có nhiều, nhưng chưa thấy cây nào đẹp như thế này.
Giả Chính nói:
– Đây là “nữ nhi đường”, lấy giống ở nước ngoài. Tục truyền giống này ở nước Nữ Nhi. Bên ấy có rất nhiều, nhưng cũng là lời hoang đường, không đáng tin.
Một người nói:
– Bảo rằng hoang đường không đáng tin thì tại sao từ lâu đã có cái tên ấy.
Bảo Ngọc nói:
– Phần nhiều các nhà ngâm vịnh thấy hoa này đỏ như son, ẻo lả như có bệnh, gần giống phong độ của người trong khuê các, cho nên đặt tên là “Nữ Nhi”. Có lẽ sau này người đời không thích nghe cái tên ấy, bèn dựa vào sử sách cho có chứng cớ rồi cứ thế truyền sai mãi đi, để thành sự thực.
Mọi người đều gật đầu khen ngợi, rồi ra ngồi cả ở giường ngoài hiên. Giả Chính bảo:
– Nên đề mấy câu gì thực mới đây?
Một người khách nói:
– Nên đề hai chữ “tiêu hạc” 27.
– Lại một người nói: “Nên đề bốn chữ “Sùng quang phiếm thái” 28.
Giả Chính cùng mọi người nói:
– “Sùng quang phiếm thái” hay!
Bảo Ngọc nói:
– Hay đấy, nhưng đáng tiếc
Mọi người hỏi:
– Sao lại đáng tiếc?
Bảo Ngọc nói:
– Chỗ này trồng chuối và hải đường, ám chỉ màu đỏ, màu xanh. Nếu chỉ nói chuối mà bỏ sót hải đường thì không hay; trái lại nói hải đường mà bỏ sót chuối cũng không được. Như thế không thể chỉ có chuối mà không có hải đường, càng không thể chỉ có hải đường mà không có chuối.
Giả Chính nói:
– Ý mày định viết chữ gì?
Bảo Ngọc nói:
– Con muốn viết bốn chữ “Hồng hương lục ngọc” thì mới đủ cả hai nghĩa.
Giả Chính lắc đầu:
– Không được, không được!
Mọi người vào trong buồng, thấy ở đấy trang trí không giống các nơi, nhìn chỗ nào cũng như chỗ nào. Nguyên ở đây xung quanh đều ghép gỗ chạm nổi của những tay thợ rất tài tình: chỗ thì chạm trăm con dơi bay vòng quanh, chỗ thì chạm ba người bạn mùa đông 29, chỗ thì chạm sông núi, nhân vật, chỗ thì chạm các thứ chim, cỏ, cây hoa hoặc thập cẩm, hoặc đời cổ hoặc chữ phúc, chữ thọ, các thứ này đều được khảm vàng ngọc đủ các màu sắc. Có nhiều ô vuông, tròn khác nhau, theo hình hoa quỳ, lá chuối, vòng tròn hay bán nguyệt để bỏ sách, bút nghiên, đặt đỉnh, lọ hoa chậu cây. Thực là trăm hoa nghìn gấm, chói lọi khắp nơi. Chỗ này cửa sổ dán lụa ngũ sắc xinh xắn; chỗ kia cửa che lụa mỏng lờ mờ. Khắp tường, có bày các đồ cỗ, như đàn, gươm, bầu rượu… đều đặt trong từng ô một, phẳng lì với mặt trăng. Mọi người đều khen: “Thực là tinh xảo! Làm được thế này khó lắm!”
Giả Chính chưa đi đến từng thứ hai đã lạc đường, trông sang bên tả có cửa ra vào, nhìn sang bên hữu có cửa sổ ngăn lại, tiến lên phía trước bị một tủ sách chắn ngang, quay lại phía sau thấy cửa sổ che màn lụa trông rõ lối đi. Khi đến nơi, chợt thấy có người lù lù đi lại giống mình như hệt, đó là cái gương pha lê lớn. Luôn qua cái gương lại thấy nhiều cửa. Giả Trân cười nói:
– Ông cứ theo tôi, đi đường này ra thì đến sân sau, ở đằng sau đi ra thì gần hơn đằng trước.
Mọi người đi quanh hai lần cửa gấm, quả nhiên có một lối ra. Trong sân có nhiều giàn hoa tường vi. Qua hàng rào hoa, thấy có một khe nước chắn ngang. Mọi người lấy làm lạ nói:
– Dòng nước này từ đâu đến đây?
Giả Trân trỏ ra đằng xa nói:
Nó từ cửa đập đằng kia chảy đến cửa hang, theo chỗ trũng ở núi phía đông bắc dẫn đến trang trại. Lại có dòng nhỏ chảy ra phía tây nam, đến đấy hợp lại làm một, rồi theo chân tường chảy đi.
Mọi người đều nói: “Khéo quá nhỉ!”
Chợt thấy ngọn núi lớn chắn ngang, ai nấy đều sợ lạc đường Giả Trân cười nói:
– Cứ đi theo tôi.
Rồi hắn đi trước dẫn đường. Vòng khỏi chân núi một quãng lại là đường to bằng phẳng, có một cái cửa lớn hiện ra trước mắt. Mọi người nói: “Thú thực, thú thực! Thần kỳ tinh xảo đến thế là cùng!”
Bấy giờ Bảo Ngọc chỉ để tâm nhớ nhà, không thấy Giả Chính bảo gì, đành phải theo đến thư phòng. Giả hình sực nhớ, nói:
– Mày còn chưa về à? Đi chơi nửa ngày trời vẫn chưa chán hay sao? Chắc cụ lại mong đấy. Về ngay đi. Nuông lắm sinh hư thôi!.
Bảo Ngọc nghe vậy mới dám về. Ra đến ngoài, bọn hầu bé của Giả Chính chạy lại ôm lấy nói:
– May mà hôm nay ông nhà vui đấy. Vừa rồi cụ mấy lần sai người ra hỏi, chúng tôi đều nói ông đương vui với cậu; nếu không thì cụ đã gọi cậu về ngay rồi, còn trổ tài làm sao được? Ai cũng bảo thơ cậu hay hơn mọi người. Hôm nay được hãnh điện như thế, phải thưởng cho chúng tôi mới được.
Bảo Ngọc cười nói:
– Cho mỗi người một quan tiền.
Mọi người nói:
– Một quan tiền thì ai mà chẳng có? Thưởng cho cả cái túi của cậu!
Nói xong đứa cỡi lấy cái túi, đứa lấy túi quạt, chẳng kể đầu đuôi, chúng lấy sạch các thứ đeo ở trong người Bảo Ngọc.
Rồi nói:
– Thôi đưa cậu về đi.
Một lũ vây tròn lấy Bảo Ngọc, dẫn về đến tận cửa Giả mẫu. Bấy giờ Giả mẫu đương mong, thấy Bảo Ngọc về, biết là không xảy chuyện gì, trong lòng rất vui.
Một chốc, Tập Nhân mang nước trà đến, thấy những đồ đeo trong mình Bảo Ngọc không còn một thứ gì, cười hỏi: Những đồ đeo đâu cả? Chắc lại bị bọn mặt dày nào lột mất rồi.
Đại Ngọc nghe nói chạy lại, thấy chẳng còn cái gì, hỏi Bảo Ngọc:
– Cái túi của tôi khâu, anh cũng cho chúng nó rồi à? Mai lại chực xin cái khác, đừng hòng có của sẵn thế.
Nói xong, bực tức về buồng, lấy kéo cắt vụn cái túi đựng hương đang khâu cho Bảo Ngọc.
1 Màu xanh của núi và của cây cối chồng chất lên nhau.
2 Núi gấm.
3 Trại thi nhau. Hương lô: Đời Hán có người thợ khéo lắm in một cái lư hương như hình quả núi, gọi là Bắc sơn hương lộ Ở đây ý nói quả núi này đẹp hơn Bắc sơn hương lô.
4 Nụ Chung Nam nhỏ: một quả núi ở phía nam Thiểm Tây, phía đông Hà Nam, phía tây Cam Túc, phong cảnh rất đẹp.
5 Con đường nhỏ, quanh co, đưa đến chỗ thắng cảnh.
6 Âu Dương Tu tự là tính Thúc, hiệu là Túy ông. Một nhà văn nổi tiếng ở đời Tống có làm hai bài ký Túy ông đình. Nay ớ Từ Huyện. tinh An Huy, còn di tích cái đình này.
7 Quang đãng, sáng sủa.
8 Suối chảy qua khe giữa hai quả núi.
9 Nước chảy ra từng hạt ngọc.
10 Nước suối ngon có thể dùng để nấu rượu.
11 Nước đượm mùi thơm.
12 Điển tích trong kinh Thị Phong nhã của bên Kỳ sót lại.
13 Di tích của vườn Thư.
14 Có chim phượng đến múa, ý nói điềm lành trong cảnh tượng thái bình.
15 Phạm Thành Đại, hiệu Thạch Hồ cư sĩ, một nhà văn nổi tiếng đời Cao Tông triều Nam Tống, có làm bài thơ tả phong vị nhà làm ruộng.
16 Trên ngọn cây mận treo kỳ bài bán rượu.
17 Cờ bán rượu trên cây hạnh trước mặt.
18 Cửa tre dòm xuống nước, mùi lúa thơm ngào ngạt.
19 Theo bài ký “Nguồn đào” (Đào nguyên) của Đào Tiềm đời Tấn.
20 Nhà cũ của người đời Tần, tức là người đời Tần vào tránh loạn ở trong Đào nguyên.
21 Bờ cỏ liễu bên hoa (cỏ liễu là một loại cỏ thơm mọc dưới nước).
22 Gió hoa lan, sương hoa huệ.
23 Hoa cỏ đầy sân khóc bóng chiều.
24 Thơm mát của cỏ hành cỏ chi.
25 Viết lên lá chuối chữ còn xanh.
26 Chỗ này ý nói Bảo Ngọc nhớ lại giấc mộng đã nói ở trong hồi thứ năm.
27 Xây chuối và con hạc.
28 Màu sáng lộng lẫy dọi ra nhiều vẻ.
29 Tùng, trúc, mai gọi là ba người bạn mùa đông.