-Tôi biết, -Nê-mô trả lời bằng một giọng bình thản như trong bất cứ tình huống nào, dù gay go nhất.
-Vâng, lại thêm một mối đe dọa nữa, nhưng tôi chưa biết sẽ vượt qua thế nào. Khả năng duy nhất để chúng ta thoát thân là phải hành động nhanh hơn. Chúng ta phải tới đích trước. Thế thôi!…
Hôm đó tôi cuốc rất hăng trong mấy tiếng đồng hồ nên trong người thấy dễ chịu. Ngoài ra, làm việc có nghĩa là ra khỏi tàu, thở không khí tươi mát do các bình chứa trên tàu cung cấp, có nghĩa là xa lánh cái không khí ngột ngạt và có hại trên tàu. Đến chiều tối chúng tôi lại bóc được thêm một mét nữa. Khi quay về tàu, chút nữa thì tôi bị ngạt thở vì khí các-bo-nic đang bão hòa trên tàu. Trời ơi, sao chúng tôi không có trong tay một hóa chất hấp thụ được khí độc đó! Tối hôm ấy, thuyền trưởng Nê-mô đành cho mở vòi các bình chứa để tháo một ít không khí trong lành vào trong tàu. Không có biện pháp ấy, có lẽ chúng tôi không thể dậy được. Hôm sau, 26 tháng 3, tôi lại đi làm việc và bắt tay vào cuốc mét băng thứ năm. Trần băng và tường băng hai bên dày lên một cách rõ rệt. Đúng là chúng sẽ chập vào nhau trước khi tàu Nau-ti-lúx thoát ra khỏi chỗ này. Trong giây phút, tôi ngã lòng. Chiếc cuốc chim suýt rơi khỏi tay tôi. Cuốc băng bây giờ còn ý nghĩa gì nếu số tôi là sẽ bị chết ngạt hay bị băng đè nát, một kiểu hành hình mà quân man rợ nhất cũng chưa nghĩ ra? Tôi cảm thấy mình đang nằm trong cái mõm ngoác rộng của một quái vật sắp nghiến chặt hai hàm răng khủng khiếp lại. Đúng lúc đó, thuyền trưởng Nê-mô đi ngang qua chỗ tôi (ạng ta cũng đào băng với anh em). Tôi chỉ cho Nê-mô xem những bức tường của đường hầm. Bức tường bên trái chỉ cách tàu không quá bốn mét. Thuyền trưởng hiểu ý tôi và ra hiệu cho tôi đi theo. Chúng tôi quay về tàu. Tôi tháo bộ đồ lặn ra cùng Nê-mô vào phòng khách. Nê-mô nói:
-Ngài A-rô-nắc, cần có một biện pháp dũng cảm. Nếu không, khi nước biển thành băng, nó sẽ bám chặt lấy tàu như xi-măng.
-Vâng, nhưng biết làm thế nào?
-Tôi trả lời.
-Chao ôi, nếu tàu Nau-ti-lúx của tôi có đủ sức chịu được áp suất này và an toàn!
-Thế thì sao?
-Tôi chưa nắm được ý của Nê-mô.
-Lẽ nào giáo sư không hiểu rằng khi đó hiện tượng nước đóng băng chỉ có lợi cho ta? Lẽ nào giáo sư không thấy rằng bản thân việc nước đóng băng sẽ phá vỡ đồng băng đang bao vây ta? Lẽ nào giáo sư không hiểu rằng nó sẽ trở thành phương tiện cứu sống ta chứ không phải là phương tiện tiêu diệt ta?
-Thưa thuyền trưởng, có thể như vậy. Nhưng dù sức bền của tàu Nau-ti-lúx có lớn đến đâu, nó cũng không chịu nổi áp suất khủng khiếp như vậy và sẽ bị cán mỏng như một lá thép.
-Tôi biết. Vì vậy, ta không thể trông chờ vào sự giúp đỡ của thiên nhiên mà phải trông vào chính ta. Phải kìm quá trình đóng băng lại. Chẳng những tường băng hai bên đương xích lại gần nhau mà phía trước và phía sau tàu cũng chỉ còn không quá ba mét nước. Nghĩa là chúng ta bị nước đóng băng cả bốn phía.
-Những bình chứa trên tàu còn cung cấp không khí cho chúng ta thở bao lâu nữa? Thuyền trưởng nhìn thẳng vào mặt tôi và nói.
-Đến ngày kia thì các bình chứa sẽ rỗng. Tôi lạnh cả người. Trong lúc đó, thuyền trưởng Nê-mô lặng im suy tính một điều gì. Nhìn nét mặt thì hình như trong óc ông ta vừa thoáng một ý nghĩ. Nhưng Nê-mô lắc đầu, gạt bỏ ý nghĩ đó. Cuối cùng, Nê-mô bật ra:
-Nước sôi!
-Nước sôi?
-Tôi ngạc nhiên.
-Vâng. Chúng ta bị kẹt vào một khoảng không gian tương đối hạn chế. Nếu các máy bơm trên tàu liên tục phun nước nóng thì lẽ nào nhiệt độ môi trường quanh ta không tăng lên và không kìm được quá trình đóng băng lại?
-Cần thử ngay.
-Tôi nói dứt khoát.
-Ta thử xem, giáo sư nhé! Nhiệt kế bên ngoài chỉ -7o. Thuyền trưởng Nê-mô dẫn tôi vào phòng chế biến nước ngọt bằng phương pháp làm bốc hơi. ở đó có những máy cất lớn. Người ta bơm đầy nước vào các máy đó rồi dẫn nhiệt từ các máy phát điện vào. Mấy phút sau nước được đun nóng tới 100o và đưa vào máy bơm. Nhiệt ở các máy phát điện tỏa ra nóng đến nỗi nước lạnh từ biển đưa thẳng vào chỉ qua máy cất là sôi lên. Ba tiếng đồng hồ sau khi phun nước sôi, nhiệt kế bên ngoài chỉ -6o. Thế là nhích lên được một độ. Hai tiếng đồng hồ sau, nhiệt kế đã chỉ -4o.
-Chúng ta sẽ thắng, -Tôi bảo thuyền trưởng, đã vững tin vào thành công của những biện pháp vừa áp dụng.
-Tôi cũng nghĩ vậy, -Nê-mô trả lời, -Chúng ta sẽ không bị đè bẹp. Chỉ còn sợ bị ngạt nữa thôi. Sau một đêm, nhiệt độ tăng lên -1o. Phun nước nóng không thể nâng nhiệt độ lên được nữa. Nhưng vì nước biển chỉ đóng băng ở -2o nên tôi yên tâm. Thế là mối đe dọa này sẽ bị tan. Hôm sau, 27 tháng ba, chúng tôi đã bóc được sáu mét băng. Còn phải đào bốn mét, mất bốn mươi tám tiếng đồng hồ nữa. Vì vậy, không thể thay không khí trong tàu được. Tình hình chúng tôi hôm đó càng tồi tệ hơn. Người tôi nặng trình trịch không sao chịu nổi. Đến ba giờ chiều thì cảm giác nặng nề lên tới đỉnh cao nhất. Hai hàm răng bị sái đi vì ngáp quá nhiều. Hai lá phổi quằn quại tìm chút không khí trong lành để thở, nhưng không khí ngày càng hiếm. Trong tình trạng kiệt sức, tôi nằm đờ ra, gần như ngất đi. Anh chàng Công-xây đáng yêu của tôi cũng có những triệu chứng đau đớn tương tự, cũng chịu đựng những nỗi khổ tương tự, nhưng vẫn không rời bỏ tôi. Anh ta nắm lấy tay tôi động viên. Tôi còn nghe tiếng Công-xây thì thào:
-Trời! Nếu như tôi có thể ngừng thở để dành thêm một chút không khí cho giáo sư. Mắt tôi rưng rưng khi nghe thấy lời Công-xây nói. Nhưng nếu những người trên tàu đang ở trong tình trạng không thể chịu đựng được, thì mỗi khi đến phiên lao động, ai nấy đều phấn khởi mặc ngay đồ lặn.
Chúng tôi cuốc băng rất hăng. Vai chúng tôi mỏi rời, hai bàn tay phồng lên, nhưng mệt nhọc bây giờ chẳng có nghĩa gì, những vết xây xát chẳng đáng để ý tới. Không khí trong mát ùa vào phổi chúng tôi! Chúng tôi thở! Tuy vậy, chẳng ai tiếp tục công việc của mình dưới nước quá thời gian quy định. Vừa hết giờ là chúng tôi chuyển ngay bình chứa không khí cho bạn mình để truyền sức sống cho họ. Thuyền trưởng gương mẫu trong việc này và là người đầu tiên phục tùng kỷ luật nghiêm ngặt đó. Đúng giờ là thuyền trưởng trao ngay bình chứa không khí cho người khác rồi quay về con tàu đầy khí độc. Lúc nào thuyền trưởng cũng bình thản, không hề uể oải, không một lời phàn nàn. Hôm đó, công việc được tiến hành hết sức khẩn trương. Chỉ còn phải đào hai mét băng nữa. Chúng tôi chỉ cách chỗ biển không bị đóng băng có hai mét! Nhưng các bình chứa không khí gần như đã rỗng. Còn lại một ít thì phải dành cho những người đang lao động. Không thể cung cấp cho tàu thêm một chút nào nữa! Về đến tàu, tôi đã gần chết ngạt. ại, đêm hôm đó không bút nào tả xiết! Sáng hôm sau tôi vừa nhức đầu lại vừa chóng mặt như người say rượu. Các bạn tôi cũng vậy. Mấy thủy thủ chỉ còn thở khò khè. Hôm nay, chúng tôi đã bị cầm tù đến ngày thứ sáu, thuyền trưởng Nê-mô cho rằng cuốc và xà-beng là những phương tiện quá chậm chạp nên quyết định phá vỡ lớp băng còn lại bằng cách khác. Nê-mô vẫn giữ được sự bình tĩnh và nghị lực của mình. ông ta dùng sức mạnh tinh thần để dẹp tan những đau đớn vật chất. Nê-mô suy nghĩ, phối hợp và hành động…
Nê-mô ra lệnh cho tàu nổi nên khỏi lớp băng và đỗ đúng phía trên cái hố lớn đang đào theo hình tàu. Các bể chứa vừa được bơm đủ nước thì tàu Nau-ti-lúx hạ xuống và lọt vào đúng hố. Trước đó, toàn thể thủy thủ đã vào trong tàu và đóng tất cả các cửa ngoài. Tàu Nau-ti-lúx nằm trên lớp băng mỏng một mét đã bị đục thủng nhiều chỗ. Lúc đó, các vòi nước ở các bể chứa được mở hết nấc, hút vào bể một trăm mét khối nước nữa, tăng trọng lượng tàu lên một trăm tấn. Chúng tôi chờ đợi, nghe ngóng, quên cả đau đớn. Tuy đầu nhức như búa bổ, một lát sau tôi vẫn nghe thấy tiếng răng rắc dưới thân tàu. Mặt băng đang rạn nứt. Cuối cùng, lớp băng vỡ hẳn ra, gây nên một tiếng động đặc biệt, giống tiếng một tờ giấy bị xé rách. Tàu Nau-ti-lúx bắt đầu chìm xuống.
-Thoát rồi!
Công-xây khẽ nói vào tai tôi. Tôi không còn đủ sức để trả lời nữa. Tôi chỉ nắm lấy tay Công-xây rồi bất giác xiết mạnh. Nhờ tác động của trọng lượng lớn mà tàu Nau-ti-lúx bắt đầu lặn xuống nước như một hạt gì đó rơi vào khoảng không. Lập tức toàn bộ điện năng tập trung vào các máy bơm để đẩy nước ra khỏi các bể chứa. Mấy phút sau, tàu ngừng lặn rồi bắt đầu nổi lên. Chân vịt quay nhanh đến nỗi làm toàn thân tàu rung mạnh. Tàu lao về hướng bắc. Nhưng tàu còn phải chạy dưới băng bao lâu nữa thì mới đến chỗ mặt đại dương không đóng băng? Một ngày nữa ư? Tôi sẽ chết trước lúc đó mất! Tôi nửa nằm nửa ngồi trên chiếc đi-văng ở thư viện và ngạt thở. Mặt tôi bầm lại, môi nhợt nhạt, sự rối loạn hoàn toàn về chức năng bắt đầu. Các bắp thịt mất khả năng co bóp. Tôi không nhớ tình trạng đó kéo dài mấy giờ. Tôi chỉ biết rằng mình đang hấp hối. Tôi bỗng hồi tỉnh. Mấy hụm không khí mát lọt vào phổi tôi. Chẳng lẽ tàu đã nổi lên mặt biển rồi? Không! Đó là Nét và Công-xây, những người bạn đáng yêu của tôi đã hy sinh thân mình để cứu tôi bằng cách cho tôi hít chút không khí còn sót lại trong một bình chứa! Đáng lẽ để mình thở, họ lại dành cho tôi trong khi chính họ đang bị ngạt. Tôi muốn đẩy cái bình ra, nhưng hai người giữ chặt tay tôi. Thế là tôi được thở thoải mái trong mấy phút. Tôi đưa mắt nhìn đồng hồ: mười một giờ trưa. Nghĩa là đã sang ngày 28 tháng ba. Tàu Nau-ti-lúx chạy với tốc độ ghê người là bốn mươi hải lý một giờ. Thuyền trưởng Nê-mô ở đâu? ông ta chết rồi sao? Các bạn ông ta cũng chết rồi sao? Căn cứ vào đồng hồ chỉ độ sâu, chúng tôi chỉ cách mặt biển hơn sáu mươi mét. Một lớp băng mỏng ngăn cách chúng tôi với không khí phía trên. Sao không thể phá vỡ được? Được chứ! Dù thế nào, tàu Nau-ti-lúx cũng sẽ làm như vậy, tôi cảm thấy thế! Nó hạ phía lái xuống và ngếch mũi nhọn lên. Sau đó nó mở hết tốc lực lao thẳng lên lớp băng, phá vỡ dần từng mảng. Cuối cùng, tàu xuyên thủng được mặt biển bị đóng băng và dùng sức nặng của mình phá vỡ lớp băng đó. Các cửa kính được mở rộng, không khí biển ùa vào tàu Nau-ti-lúx.