Phan Tử thấy vậy bèn bảo với cả bọn: “Hôm nay cứ nghỉ ngơi đi đã, dùsao một chốc một lát cũng không ra được, chi bằng cứ đánh một giấc thậtđẫy cho đầu óc tỉnh táo đã. Cậu Ba đừng nghĩ ngợi nhiều quá, tôi biếtcậu ôm rất nhiều khúc mắc trong lòng, nhưng muốn làm rõ cũng không phảichuyện một sớm một chiều đâu.”
Tôi khoát tay. Làm sao mà ngủ được chứ, chẳng thà ngồi đây nghĩ tiếpcho rồi. Nghĩ đến khi chịu hết nổi mới thiếp đi được, bằng không càngngủ càng mệt thêm thôi.
Bàn Tử chẳng biết đã rít đến điếu thuốc thứ mấy rồi, vừa rít vừa làubàu: “Giờ tôi lại nghĩ, nếu sớm biết thế này hồi nãy đã không đi theocái ký hiệu kia. Giá nghe lời tôi có phải tốt hơn không, một nhóm bịnhốt rồi nhóm kia còn có đường nghĩ cách… (Bàn Tử từng đề nghị chia làm 2 nhóm) Cái ký hiệu đó, giờ ngẫm lại có khi là do mấy cỗ thi thể kia để lạicũng nên. Cậu xem, mọi chuyện đều trùng khớp. Có lẽ bọn họ cũng nghĩ như chúng ta, chia ra thành hai nhóm, hai người kia đi vào mộ đạo đốidiện.”
Tôi lắc đầu bảo không đâu, một nhóm bị nhốt rồi, nhóm kia quay lạitìm chẳng phải cũng dính trấu như nhau sao, đến lúc đó mới gọi là thảm.Hơn nữa không chừng đi bên không có ký hiệu kia còn nguy hiểm hơn, vìđâu ai biết chờ chúng ta là cái quái gì.
Có điều đào sâu suy nghĩ lại thấy vô lý, vì nếu một nhóm bị nhốt thìkhi nhóm kia quay lại mộ đạo đã biến đổi, bọn họ sẽ không tài nào tìm ra cái mộ thất này. Ký hiệu kia liệu có phải do người may mắn sống sót ghi lại, là ký hiệu “đội này đã mất tích”?
Nghĩ đi nghĩ lại, tôi đột nhiên run bắn toàn thân… Một tia điện xẹt qua óc tôi… Ký hiệu…
Tôi dồn sức ngồi bật dậy, nói với bọn họ: “Tôi bỗng nhớ ra một sơ hở rất quái dị. Về cái mộ đạo này, có một lập luận bác bỏ.”
“Cái gì cơ?”
Tôi nhíu mày nghĩ xem mình phải diễn đạt thế nào, “Tôi sợ các anhnghe không hiểu. Thí dụ nhé, nếu chúng ta đi ra ngoài trong bóng tối,bất kể là vì nguyên nhân gì, chúng ta đều phải qua một quá trình thayđổi phương hướng, cho dù quá trình này bản thân chúng ta không hề haybiết, có đúng không?”
Mấy người kia khẽ gật đầu, tôi nói tiếp: “Ví dụ như, tôi cầm một câybút vừa đi vừa vẽ lên tường thì nhất định sẽ để lại một vạch thật dàitrên tường lối ra. Vậy trong tích tắc tôi bị đổi hướng mà không biết,các anh đoán xem tôi sẽ phát hiện điều gì?”
Bàn Tử gần như nhảy dựng lên: “Cậu sẽ thấy trên vách tường mộ đạo phía trước đã có dấu vết cậu vạch ra từ trước rồi!”
“Không chỉ có vậy!” Tôi nói: “Điểm mấu chốt nhất là gì? Chính là saukhi tôi quay người, trái phải sẽ đổi chỗ cho nhau, tay cầm bút của tôisẽ bắt đầu vạch lên vách tường bên kia.”
“Cái này!” Phan Tử cũng nhíu mày nói.
“Đây là suy luận logic.” Tôi giải thích: “Nói cách khác, nếu như dùng logic học để giải thích, đặt giả thiết ở chính giữa mộ đạo có một điểmngoặt! Ở điểm ngoặt này chúng ta sẽ giống như bước vào một tấm gương,sau đó đi thẳng về hướng ngược lại với mình, các anh có công nhận khôngnào?”
Ai nấy đều gật đầu, theo logic thì nhất định phải như tôi nói.
Tôi nói: “Tốt, vậy các anh nghĩ thử coi, nếu trong lúc đi chúng tathực sự đụng phải một ‘mặt phản xạ’ như lời tôi nói, vậy cái mặt phản xạ này phải dày cỡ nào?”
“Dày cỡ nào á?” Mấy người này còn chưa tiêu hóa xong những lời tôi vừa nói, ù ù cạc cạc.
“Đúng, nhất định phải có độ dày. Nếu không có độ dày thì lúc cơ thể anh xuyên qua một nửa trước, nửa người phía sau sẽ…”
Phan Tử lập tức hiểu ý của tôi, thoáng cái đã đầm đìa mồ hôi lạnh, vô thức tiếp lời: “Chồng lẫn lên nhau!”
“Chính xác! Bởi vì ở vị trí đó, nửa người trước của anh đã bị phản xạ trở về, nhưng nửa phía sau lại chưa đi qua ‘mặt gương’, cho nên nếu lập luận của tôi là chính xác, thì đúng vào lúc xuyên qua ‘gương’ phản xạ, chúng ta ắt hẳn phải chết! Sẽ biến thành một nùi quái thai! Mặt anh sẽđâm ra đằng gáy!”
“Nhưng chúng ta đã đi qua đi lại bao nhiêu bận mà có chết đâu?” Bàn Tử nghi hoặc hỏi.
“Đó chính là điều tôi muốn nói. Mặt gương này đảm bảo phải có độ dàylớn hơn cơ thể người. Quá trình phản xạ sẽ thế này, sau khi tiến vàovùng phản xạ, trước tiên chúng ta vào từ đầu bên này, đi một đoạn bêntrong xong lại đi ra ở đầu kia, hoàn thành nếp gấp không gian.”
Mọi người lại gật đầu tỏ vẻ đồng tình, lối suy luận này quả là không một kẽ hở.
“Vấn đề là chúng ta không biết cái đoạn đó dài bao nhiêu. Giả như nóchỉ dài hai ba bước, tôi lấy một ví dụ thế này, nếu chúng ta đi vào mộtđoạn ‘gương không gian’, nhưng Bàn Tử lại không vào, mà đứng ở chỗ bắtđầu có tấm gương không gian. Tấm gương không gian chỉ dài có vài babước, anh lại có thể quan sát cả hai phía trước sau, anh đoán xem sẽ cóchuyện gì xảy ra nào?”
Phan Tử hiểu nhanh nhất, cổ họng gần như đông cứng: “Sẽ… thấy trước sau xuất hiện hai Bàn Tử giống hệt nhau.”
“Đúng, ở đây xuất hiện một lập luận bác bỏ: Bàn Tử đứng phía sau anh, khi nhìn vào khoảng không trước mặt anh, có thể thấy Bàn Tử phía trước anh không? Hoặc là anh nắm lấy tay của một trong hai Bàn Tử đó, thì sẽcó chuyện gì xảy ra?”
Phan Tử vội vàng ra hiệu cho tôi ngừng lại: “Đừng… đừng nói nữa!”
“Làm vậy để chứng minh cái gì mới được chứ?” Bàn Tử bên cạnh cũng đã tái mặt.
“Chúng ta không cần tiếp tục thí nghiệm cũng có thể xác định, thứ gọi là ‘gương không gian’ này không thể tồn tại được! Hơn nữa cái mộ đạophản xạ này đi thế nào cũng không thoát ra nổi, cơ sở logic của nó cũngkhông tồn tại, nói cách khác sự tồn tại của mộ đạo này là không hợplogic.” Tôi hạ giọng: “Uông Tàng Hải không phải thánh thần, ông ta không thể tự mình tạo ra định luật vật lý. Cơ quan ở chỗ này không liên quangì đến Uông Tàng Hải hết, những người này cũng không phải vì vậy mà bịvây khốn đến chết. Tình huống chúng ta hiện đang gặp phải là một trườnghợp đặc biệt, là một tình huống mới! Chúng ta đã bị những cái xác nàyđánh lạc hướng rồi, giờ đây khả năng lớn nhất tạo ra tình huống này, chỉ có một mà thôi…”
Tôi cẩn thận chỉ ngón tay vào giả thiết thứ tư mà Bàn Tử đã viếtxuống, cử động môi, dùng khẩu hình nói: “Bên người chúng ta có quỷ!”